|
bài viết
Một số chủ đề trong ca khúc Trịnh Công Sơn - Phần 2
--- Bửu Ý ---
3.Tình bạn
Trịnh Công Sơn thích có bạn bên mình. Mọi người trong gia đình nhất là mẹ anh hiểu rõ điều này và bao giờ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho anh. Luôn trong bữa ăn, giấc ngủ, anh muốn chuyện trò cho đến khi chợp mắt. Do đó, nhà anh thường có không khí bạn bè, sự có mặt của bạn bè. Thậm chí, khi anh vắng nhà, bạn đến thăm đã có mẹ hoặc các em đỡ câu chuyện để cầm chân bạn cho anh. Anh là người quảng giao, lại hiểu biết nhiều, anh luôn luôn sẵn sàng chuyện để tiếp bạn. Và các bạn của anh hầu hết cũng chia sẻ với anh cái ưu thích bạn trai như thế này. Riết rồi cả đám như thể mang bệnh đồng tính luyến ái. Câu chuyện giữa bạn bè phải có nội dung đáng quan tâm: thời thế, văn học, nghệ thuật… cho nên cứ kéo dài thêm mãi. Anh thích những bạn nào có nét riêng, hoặc là độc đáo, có cá tính, hoặc là có tiếng tăm, để có thể đưa đẩy câu chuyện đi xa. Giữa bạn bè, không cần đãi bôi, vị nể, nói thẳng với nhau luôn cả những điều khó nói. Cho nên có khi câu chuyện trở nên căng thẳng.
Ngô Kha, thi sĩ, vốn trong ngành Luật, là người bạn nói năng hùng hồn, sách hoạch, lại thiên về chính trị. Có anh, câu chuyện dễ hào hứng, bốc lửa. Anh còn có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, chuộng thơ siêu thực, thích nói tới phong trào siêu thực phương Tây cùng các khuôn mặt tiêu biểu của phong trào này. Anh kết thân với một thi sĩ vùng Vỹ Dạ là Võ Ngọc Trác, được xem là nhà thơ siêu thực đầu tiên của Huế. Cá tính của anh dễ gây ấn tượng với Trịnh Công Sơn cũng như các bạn bè khác. Ngô Kha cho xuất bản tập thơ siêu thực của mình năm 1962. Tập thơ không gây tiếng vang mới mẻ, lạ lẫm của nó, nhưng học sinh đã bắt đầu xem anh như thần tượng vì ngoài phong cách thi sĩ anh còn là một giáo sư có ảnh hưởng đến học sinh qua bộ môn Công dân và Việt văn với những suy nghĩ thời yêu nước của mình. Thần tượng riêng của anh là Che Guevara mà anh thường nhắc nhở. Ngoài ra, anh đánh giá cao một giáo sư đại học lúc bấy giờ là ông Lê Tuyên, người có một lối phê bình văn học đặc sắc, tỉ mỉ, riêng biệt và một lối sử dụng ngôn từ sáng tạo. Ngô Kha còn theo dõi những sự kiện văn học trên thế giới, tỏ ra rất hào hứng khi Albert Camus được trao giải Nobel văn chương năm 1957 để rồi cảm thương cho nhà văn ấy bị tử nạn xe hơi ba năm sau.
Hoàng Phủ Ngọc Tường dạy học rất sớm ở trường Đồng Khánh và nổi tiếng ngay. Anh lại còn được đào tạo về triết học phương Tây nên dễ đi sâu hơn vào những đề tài giảng dạy, nghiên cứu. Anh dạy học tài hoa, truyền cảm, có trí nhớ tốt, được học sinh ngưỡng mộ. Anh là linh hồn của “Tuyệt Tình Cốc”, nơi gặp mặt của thanh niên sinh viên yêu nước.
Trịnh Công Sơn cùng với Ngô Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những người gây ảnh hưởng sâu đậm cho thanh niên sinh viên, là những người đàn anh đáng tin cậy.
Huế là một thành phố nhỏ, nhiều trường học, nhiều chùa chiền. Sinh hoạt trong thành phố thường đi liền với học đường, thỉnh thoảng mới có những sinh hoạt văn hóa. Vì vậy một chương trình ca khúc Trịnh Công Sơn hoặc một phòng triển lãm tranh của Đinh Cường là những “biến cố” được hân hoan chào đón. Và đối với chúng tôi đó là những ngày lễ lạt.
Trịnh Công Sơn là người hằng ao ước, ngoài việc làm cá nhân, có những hoạt động chung sức chung lòng với bạn bè. Chúng tôi thường nói đến những nhóm người hoạt động văn hóa như Tự lực văn đoàn với những tài năng chuyên biệt, tích cực, hữu ích, hoặc như Xuân Thu nhã tập với ý hướng độc đáo, táo bạo và giá trị khai sáng, tiên phong. Chúng tôi không quên đề cập tới những trào lưu văn nghệ, học thuật phương Tây để tham khảo.
Trịnh Công Sơn thân thiết với nhiều người bạn vong niên. Ở Huế anh mến Đỗ Long Vân, một người từ Pháp về, lúc đầu viết tiếng Việt khó khăn, nhưng liền sau đó đốt giai đoạn bằng những bài viết và tác phẩm súc tích, tài hoa. Anh lui tới với ông Phạm Đăng Trí, một họa sĩ lão thành tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương Hà nội năm 1942 để thưởng thức phong cách vẽ công phu và kỹ thuật sáng chế chất liệu mới của ông. Ngoài ra anh còn mến trọng Ưng Lang, một nhạc sĩ “tiền chiến” tài hoa và trẻ trung cùng Hồ Đăng Lễ, vừa là nhạc sĩ vừa là một người anh lắm phen “đứng mũi chịu sào”. Vào Sài Gòn anh thân thiết với Bùi Giáng, một tài năng ngoại hạng về tư tưởng, thi ca và hội họa. Và sau này anh đặc biệt mến mộ Nguyễn Tuân và Văn Cao như những người tri kỷ, những người anh tin thần của mình. Trong các bạn trẻ hơn, anh đặc biệt quý trọng Bửu Chỉ, không chỉ qua tác phẩm tạo hình của họa sĩ này, còn quý cả tình cảm và năng lực tư duy mà anh đã có lúc sống chung qua thời kỳ hát cộng đồng và sinh viên tranh đấu.
Trịnh Công Sơn kết giao với một số bạn nước ngoài: Eric Wuff, một bác sĩ người Đức thường xuyên cung cấp thuốc men cho Mặt trận Giải phóng miền Nam, Christian Cauro giáo sư người Pháp.
4.Lòng yêu đời
Trịnh Công Sơn là người thường trực bị ám ảnh vì một nỗi sợ siêu hình (và cụ thể) tua tủa vồ chụp lấy mình:
Sợ người yêu bỏ đi Sợ bạn ra về Sợ ngày sang đêm Sợ chai cạn Sợ mất lòng Sợ gây ngộ nhận Sợ ngủ (vì mất thì giờ) Sợ ăn (vì mất uống)
Chẳng qua anh yêu đời quá đấy thôi! Trong tác phẩm Bọn người bị ám của Dostoievski có những đoạn mà tôi trích sau đây có thể ứng vào trường hợp Trịnh Công Sơn:
“Anh tin đời sống vĩnh cửa ở thế giới bên kia? - Không! Nhưng tôi tin đời sống vĩnh cửu ở thế giới này. Có những lúc, đến những lúc thời gian bỗng dừng lại nhường chỗ cho vĩnh cửu”
Và trong đoạn cuối của tác phẩm:
“Có những giây lát – và chỉ kéo dài năm sáu giây đồng hồ liên tục mà thôi – anh bỗng nhiên cảm thấy có sự hòa điệu vĩnh cửu. Hiện tượng này không phải là hiện tượng trần gian hay thượng giới gì hết, nhưng nó là một cái gì đó mà con người trong lớp vỏ phàm tục của nó không thể nào kham nổi. Cần phải hóa thân lột xác hoặc là phải chết. Đó là một cảm giác rõ ràng không chối cãi được. Cứ như là đột nhiên tiếp xúc với toàn thể vũ trụ và ta nhủ thầm: “Phải đúng như thế”. Khi Chúa sáng thế, cứ hết mỗi ngày là ngài bảo: “Được thế này là đúng, là tốt”. Đó… đó không phải là ủy mị, đó là hoan lạc. Anh khỏi phải tha thứ, vì không có cái gì để tha thứ. Anh cũng khỏi phải yêu, thật đấy! Cái cảm giác ấy vượt lên trên tình yêu! Điều khủng khiếp là cái cảm giác ấy lồ lộ tách bạch một cách đáng sợ và nỗi hoan lạc của ta thì đầy ứ. Nếu tình trạng này kéo dài trên năm giây, lòng ta không chống cự lại nổi và phải nổ tan. Suốt năm giây này, tôi nhìn ra cả cuộc sống con người và tôi ước chi đánh đổi đời mình để được thế, chẳng lấy gì làm mắc mỏ lắm. Muốn chịu đựng nổi trạng thái ấy trong mười giây ta phải hóa thân lột xác.”
Những khoảnh khắc, giây phút sống cao độ ấy Trịnh Công Sơn đã từng sống qua những giai đoạn dạt dào tình yêu xen lẫn với hoài niệm, qua những “giây phút thiêng liêng đã khởi đầu”, hoặc xuất thần giữa tình trạng thăng hoa.
Tôi không thể không trích dẫn tiếp một đoạn sau đây của Marc Rutherford trong tác Tự thuật của mình suy nghĩ về hạnh phúc đời người giống như thể nói thay cho Trịnh Công Sơn:
“Về già, tôi hiểu rõ hơn rằng cuộc đuổi bắt tương lai thật là điên rồ, đuổi bắt cái toàn năng của ngày mai, khất hẹn ngày nay để sang ngày khác, đặt để hạnh phúc vào ngày sắp tới. Đến lúc đã gần như quá muộn màng, tôi mới tập tành làm thế nào để sống trong giây phút hiện tại, mới hiểu rằng mặt trời cho mình ánh sáng kia bây giờ cũng đẹp giống như mai sau, mới không còn lo âu cho tương lai, nhưng hồi trẻ tôi là nạn nhân của ảo tưởng ấy, mà trời đất vì một lẽ này hay lẽ khác lưu giữ lại trong ta, cho nên trong ngày đẹp nhất của tháng sáu ta cũng tưởng ngay tới những buổi sáng tháng bảy sẽ còn đẹp hơn.
Tôi không mạo muội nói lên điều gì bênh vực hay chống đối vấn đề bất tử, tôi chỉ nói điều sau đây: rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần phải bất tử và hạnh phúc ngay cả trong lúc nguy ngập, rằng khăng khăng tìm cho ra trong sự bất tử cái nguyên ủy duy nhất cho hành động của ta trong cõi đời này là một sự điên rồ quá đáng, sự điên rồ này làm hư hỏng tất cả mọi người và làm hư hỏng trọn cả đời người bằng một thứ hy vọng cứ giật lùi mãi, đến nỗi cái chết sẽ trờ tới mà ta không hưởng thụ được trọn vẹn một giờ đồng hồ nào hết”
Hãy cứ vui chơi cuộc đời Hãy cứ vui như mọi ngày Bên trời còn nắng Lá trời còn xanh Phố người còn đông Rồi quên, rồi quên…
5. Thiếu Nhi
Trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, lời ca ru trở đi trở lại nhiều lần. Đó không tuyền là khúc hát dỗ giấc cho đứa bé nằm nôi. Đó còn là một sự hiện diện đi suốt cuộc đời con, như bóng mát che chở, như thần hộ mệnh.
Chính Trịnh Công Sơn cũng là đứa trẻ nhỏ “ngồi bên hiên nhà chờ xem thế kỷ tàn phai ”.
Cho nên những ca khúc của anh, số lớn có chủ đề về tình yêu, quê hương và thân phận. Hình ảnh đứa trẻ nhỏ vui Trung thu, hát đồng dao, chơi diều, hoặc thiếu hạnh phúc giữa đời… hiện ra trong một số ca khúc:
Khăn Quàng Thắp Sáng Bình Minh, Tuổi Đời Mênh Mông, Như Mùa Xuân Qua Đây, Tiếng Ve Gọi Hè, Mùa Hè Đến, Sang Thăm Nhà Bạn, Em Là Hoa Hồng Nhỏ, Ông Tiên Vui, Đồng Dao 2000.
6. Cái chết
Có một nữ sinh viên từ tỉnh khác đến Huế học, đặt câu hỏi với tôi: “Tại sao ở Huế người ta cúng và đốt hương nhiều?”. Tôi thấy có nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân xa xôi là Huế, qua lịch sử trải qua nhiều biến cố đẫm máu có nhiều người chết có lắm oan hồn vất vưởng: thất thủ kinh đô 1885, nạn đói năm Ất Dậu 1945… Cảnh chết chóc thảm thiết, tràn lan, khiến con người ghê rợn, sợ hãi, ưu thích cầu nguyện, cúng kiến. Người dân cúng giữa đường, ngoài ra còn có phóng đăng hoặc phóng sinh. Dấu tích của tử khí ấy là các am miếu, trong đó có miếu Âm hồn và con đường mang tên Âm hồn. Tôi có một bạn người Pháp, khi được hỏi thích cảnh nào ở Huế, đã trả lời khá độc đáo: “Thích làng và nghĩ trang”. Anh bảo nghĩ trang ở Huế có hồn riêng. Nhìn mồ mả ở đây, ta không khỏi giật mình thấy chúng mọc và nhảy nhanh quá, như muốn xâm lấn cõi người sống.
Trịnh Công Sơn gợi lại cảnh lăng miếu trùng vây và mường tượng nghe ra tiếng khóc cười của bào thai. Anh đã chứng kiến nhiều cái chết thảm thương trong chiếc tranh, đã sống cái chết ấy. Và bản thân anh từ ngày xưa bị tai nạn đến sau nhiều phen được đưa vào bệnh viện cấp cứu, xem như người “từ cõi chết trở về” và cảm nhận trong từng thớ thịt hơi thở của cái sống chết mong manh. Từ đó sinh ra tâm trạng sợ mất mát: không mất cái này cũng mất cái kia, được cái này tức là mất cái kia, cái được chẳng bù cho cái mất.
Cặp phạm trù sống - chết, vốn như trở bàn tay, gây thao thức và giằng co trong người Trịnh Công Sơn. Cái sống nhiều vẻ, khúc xạ qua nhiều thời kỳ đối chọi nhau, thăng giáng qua những con người tính khí tư chất không lường được. Anh như một con chim lạ, ngứa cổ hót chơi khi bắt gặp một âm thanh đưa đẩy, hay một bóng dáng lướt qua trước mắt. Tiếng hót như một lời ướm thử, lời kêu gọi. Nhưng từng chớp ảnh của cuốn phim đời lướt qua, lướt qua, trôi tuột, bay vèo, không nằm lại trong tay, không đọng lại trong mắt.
|
nguồn: Trịnh Công Sơn - Một nhạc sĩ thiên tài
|