|
tưởng niệm
Trịnh Công Sơn, Thái Hòa và tôi - Phần 1
--- Trần Tuyết Hoa ---
Con đường âm nhạc của Trịnh Công Sơn
Những câu chuyện tản mạn hơn 40 qua với dòng Nhạc Trịnh
Những kỷ niệm viết về một người bạn tâm giao
Những lời nhắn gởi của một người Mẹ viết cho đứa con
Và những niềm hy vọng ...
NHỮNG GIỌNG CA
Hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn trong tôi nói riêng và gia đình chúng tôi khởi đầu từ sự tâm giao của những người bạn thời sinh viên. Ở đó tấm lòng chân thành của bạn bè đã đưa chúng tôi lại gần với nhau tự lúc nào không biết. Cho đến khi nhân ra điều này thì âm nhạc Trịnh Công Sơn đã là một phần trong cuộc sống của chúng tôi rồi.
Đầu những năm 1960, tôi nghe một số tình ca là lạ Ướt mi, Thương một người... của Trịnh Công Sơn (TCS) - một nhạc sĩ trẻ chưa nổi tiếng lắm, qua giọng hát liêu trai của Thanh Thúy làm mê hoặc không ít người trẻ. Rồi Nhìn những mùa thu đi với giọng ca trong sáng rất dễ thương, mượt mà, có người cho là “sang trọng” kiểu Huế của Hà Thanh, nhất là khi song ca với giọng truyền cảm kiểu Bắc của Mai Hương, cũng một thời làm người ta khó quên. Đặc biệt khi nghe Chiều một mình qua phố, thì ở lứa tuổi học trò của chúng tôi thời ấy không ai mà không thuộc. Dân Huế lại “ghiền” hơn, có người thích đạp xe lang thang dưới những hàng me xanh Sài Gòn để tự ru dỗ mình cho đở nhớ nhà, tự thì thầm với mình: ”Chiều một mình qua phố / Âm thầm nhớ đến tên em / Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím... Ngày nào mình thôi có nhau xin người biết đau”. Có bạn kêu lên: ”Cha ni ‘ba lơn’ chi lạ, đau hay không thì kệ người ta, mắc chi mình phải ‘xin’?”
Tôi lại nghĩ khác, TCS đã linh cảm được thân phận của kẻ làm ‘người’, làm một ‘vết lăn trầm’ biết đau, cái nỗi đau trần thế trước uy lực cay nghiệt của tạo hóa. Ngay trong tình yêu mà TCS cũng đã bắt đầu trăn trở về thân phận con người từ đây chăng, rồi Diễm xưa, Hạ trắng, đến những Phôi pha, Mưa hồng, Tình nhớ, Tình xa... Rõ ràng tình có buồn thật nhưng không ’sến’, vì những lời ca quá thánh thiện và đầy triết lý: “Làm sao em biết bia đá không đau”... “Ngàn sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Đến loạt Ca khúc Da vàng sau này, TCS luôn xin con người ‘biết đau’ trước nỗi đau của người khác trong chiến tranh.
Niên khóa 1964-65, tôi ở trong Ban đại diện Sinh viên Đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn (đường Nguyễn Trung Trực, nay là Thư viện Quốc gia). Lần đầu tiên tôi gặp TCS đến trường tôi hát với ca sĩ Thái Thanh. TCS giới thiệu và nhờ cô hát 2 bài mới sáng tác là Lời buồn thánh và Tuổi đá buồn. Sơn người gầy, đeo kính cận rộng vành, dáng dấp thư sinh, nói giọng Huế hơi nhỏ nhẹ. Ôm chiếc ghi ta thùng đệm cho Thái Thanh hát giữa trời, trong sân cỏ của trường, không có sân khấu. Hai người đứng trước một bức tường rêu của ngôi nhà tiền chế bỏ hoang, nhìn ra đường Nguyễn Trung Trực. Khán giả hầu hết là những sinh viên trường chúng tôi và bạn bè ngồi xổm xuống đất, lót giấy báo hay guốc dép, không có ghế. Cứ như là mấy đêm hát lửa trại, vậy mà vui. Khi Thái Thanh và mọi người ra về, Sơn ngồi lại với nhóm sinh viên thân hữu của trường. Sơn hỏi ý kiến mọi người, ai cũng khen giọng ca Thái Thanh còn phong độ, còn khỏe quá... Tôi cũng công nhận giọng ca của cô còn tuyệt lắm và rất độc đáo, nhưng xin trả Thái Thanh về cho ‘Hội trùng dương’ và ‘Danube bleu’ (Dòng sông Danube xanh), vì bắt cô hát nhạc của TCS thì ‘hơi uổng’ cho cả hai... Mọi người gật gù và Sơn chú ý đến lời nhận xét hơi ‘lạ’ của tôi rồi bắt đầu làm quen.
Vài tuần sau, Sơn mời Lệ Thu đến hát một số tình ca, quê hương và thân phận của Sơn nữa. Cũng hát trước bức tường rêu phong đó. Khán giả vổ tay tán thưởng, góp ý này nọ. Sơn hỏi riêng tôi: ”Chị thấy sao?” Tôi nói thật: ”Giọng Lệ Thu hay, truyền cảm nhưng có vài bài như vẫn còn thiếu cái gì đó của chất nhạc TCS”. Sơn gật gật...
Rồi bạn bè tổ chức cho TCS tự hát một đêm bên trong căn nhà tiền chế sau này lấy làm phòng ấn loát cho sinh viên. Sơn đứng ôm đàn hát một mình, sinh viên chúng tôi lót giấy báo ngồi xuống đất vây quanh (như trong bức hình tôi còn lưu giữ và đã tặng cho TCS, sau này in vào mặt sau tập nhạc “Những bài ca không năm tháng”). Lần nào TCS cũng được sinh viên hoan nghênh nhiệt liệt và bắt đầu làm quen với sinh viên học sinh từ Đại học Văn khoa.
Tuy vậy, Sơn vẫn cứ muốn đi tìm một giọng ca thật thích hợp cho nhạc của mình để cùng hát thì hay hơn. Sau này Sơn đã gặp được Khánh Ly đang hát cho một phòng trà ở Đà Lạt. Sơn đã mời cô về hát thử những ca khúc mới của mình, cũng ở Đại học Văn khoa. Lần này thì ai cũng phải công nhận giọng hát Khánh Ly trầm khàn, mà hát nhạc của Sơn thì như là có chất ma túy, càng hát càng thu hút người nghe. Tôi chúc mừng Sơn đã tìm được tri kỷ rồi nhé.
GIỌT NƯỚC MẮT
Theo yêu cầu của bạn bè, anh tổng thư ký NNB ban đại diện Sinh viên đoàn Văn khoa đã ký tặng các bạn của TCS một căn nhà tiền chế bỏ hoang trong khuôn viên trường ở góc đường Lê Thánh Tôn - Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi nghĩa) để làm Hội Họa sĩ Trẻ. Ở đó các họa sĩ như Nguyễn Trung, Đinh Cường, Trịnh Cung, Nguyên Khai... và họa sĩ bạn đến sinh hoạt thường xuyên. Và Sơn có thêm một chỗ an trú trong những ngày trốn lính ở Sài Gòn, nếu cái gác xếp nhà xuất bản An Tiêm bị lộ. Trong tình trạng này, Sơn luôn di chuyển khi thì ở nhà bạn bè, như TVN, cứ mỗi chỗ vài hôm cho khỏi bị theo dõi. Và chỗ nào bị chú ý thì Sơn phải biến ngay.
Dạo ấy, tôi thường liên lạc với thầy Nhất Hạnh và các thầy ở nhà xuất bản Lá Bối rồi An tiêm để mang phổ biến những tác phẩm hòa bình, đạo pháp và dân tộc của thầy Nhất Hạnh: Tình người (Tâm Quán, bút hiệu đầu tiên của Thầy), Nói với tuổi 20, Phật giáo hiện đại hoá, Hoa sen trong biển lửa... và Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.
Đây là quyển thơ mang nội dung hòa bình bất bạo động của thầy Nhất Hạnh mà một hôm tôi mang vào bán cho sinh viên Văn khoa. Vừa vào lớp xin phép thầy CL (ở Pháp về), mới nhìn thấy tựa cuốn thơ là thầy đã la lên:” Ồ! Hòa bình hả? Hòa bình là có lợi cho Việt Cộng, không thể phổ biến ở đây được”. Thầy đuổi tôi ra khỏi lớp, cả bọn sinh viên phân ban Pháp như một lũ con Tây xua tay: ”Sortez! Sortez!...” (đi ra, cút đi). Tôi ôm chồng thơ, chào thầy rồi chạy vội ra khỏi lớp với tràng cười cợt đuổi xua theo sau lưng. Có một giọng tiếng Việt còn ngọng nghịu: ”Ra ngoài Bắc mà kêu hòa bình đi!” Tôi nghẹn ngào, xấu hổ, nước mắt bỗng tuôn rơi vì đời tôi từ nhỏ tới giờ chưa bị ai xua đuổi nhục nhã như vậy. Đi ngang phòng thầy khoa trưởng Nguyễn Đăng Thục, thấy cửa mở, thầy ngoắc tôi vào:” Đi đâu, mang sách gì mà khệ nệ thế này?” Tôi vào, đóng vội cửa lại và kể hết cho thầy nghe. “Con xin lỗi thầy là đã không xin phép thầy trước”. Thầy Thục cầm một quyển thơ lên xem và khuyên tôi: ”Thôi cô mang về giả lại thầy Nhất Hạnh đi! Thưa với thầy là ở đây khó khăn lắm. Tôi ngồi đây cũng không yên thân nữa là. Vì cái vụ danh sách Hòa bình Tự quyết của các ông giáo sư TTDK đấy. Ối dào, mấy cái anh Tây con này mà biết gì tới hòa bình, đạo pháp và dân tộc kia chứ! Rõ khổ!”
Tôi mang chồng thơ về Đại học Vạn Hạnh (lúc đó còn ở chùa Pháp Hội) gặp thầy Nhất Hạnh, kể hết sự tình ở Văn khoa: ”...Họ bảo sách thầy có lợi cho Việt Cộng, thầy Thục cũng không can thiệp được...” Thầy Nhất Hạnh buồn bã khuyên tôi: ”Thầy khoa trưởng nói đúng đó, họ không còn là người Việt Nam nữa rồi, không hiểu gì hết hay không cần hiểu nữa. Họ đã vong thân chính trên quê hương của mình rồi! Thôi cô đem về An Tiêm giao lại cho thầy Thanh Tuệ, đừng buồn nữa!”
Tôi lại mang chồng thơ hòa bình về An Tiêm trong con hẻm đường Lý thái Tổ. Thầy Tuệ ngạc nhiên: ” Ủa, sao lại mang trở về?” Tôi lại kể lể bị xua đuổi ở Văn khoa. Vừa tức, vừa tủi thân, vừa thấm mệt, tôi bật khóc: ” Cuốn thơ dễ thương như vậy mà họ bảo là thân Cộng đó...Thầy”. Trên khung cửa nhỏ của cầu thang. TCS ló mặt xuống hỏi: ” Gì vậy?”, rồi ngoắc tôi lên. Thầy Tuệ bảo chị lên uống trà với anh Sơn cho ấm, hết mưa rồi về. Tôi leo lên thang gác gỗ nhỏ xíu. Cái gác xép vừa đủ cho một bộ xa lông nhỏ cũ kỹ và một tấm màn xanh đen lớn che chắn nửa phòng. Bên trong là giang sơn của các vị văn nghệ sĩ lang thang và trốn lính: Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Bửu Ý, Nguyễn Đức Sơn... thường xuyên ghé một hai ngày rồi đi. Nhà xuất bản An Tiêm của thầy như một bến sông nhỏ của những con thuyền độc mộc tài hoa một thời, cứ tấp vào rồi lại ra đi. Tôi ngồi uống trà nhìn ra cửa sổ, mưa rỉ rả buồn chi lạ. Sơn đã nghe hết chuyện, lên giọng kẻ cả la tôi:” Có chi mà khóc như con nít rứa?” Tôi ức quá kêu kên: ” Chớ tụi nó cũng là sinh viên mà đuổi mình như cùi hủi, không tức hả? Ngày mai tụi nó sẽ kháo ầm lên, cái con bé mặc áo tím đấy nay bày đặt đi bán sách hòa bình thân Cộng bị thầy đuổi. Làm sao mà còn ngồi học được!”...
Sơn buồn buồn nhìn ra cửa sổ bảo tôi: ”Bạn nhìn ra terrasse (sân thượng) xem, thấy gì không?” Tôi nói không thấy gì, mưa vừa tạnh. Sơn bảo, nhìn kỹ đi. Tôi đang tức mà hỏi chuyện vô duyên nên gắt lại: ”Nhìn kỹ rồi, chỉ có một sợi giây thép phơi áo quần mà mưa nên thầy không phơi. Hết.” Sơn cười chọc quê làm tôi tức thêm: ”Rứa mà cũng học Triết, uổng quá!” Rồi Sơn chỉ tay qua lại như người lên đồng và bảo: ”Bạn thấy không? Những giọt mưa đang chạy qua lại trên sợi dây kẽm ngoài kia, hễ gió thổi qua thì nó chạy qua, gió thổi lại thì nó chạy lại, chúng nó dìu dắt nhau đi tìm sự ‘an trú’ mà không có...Rồi gió thổi mạnh thì chúng run rẩy... và rơi xuống đất, tịch lặng...Tội nghiệp chưa? Mấy giọt mưa kia còn khổ hơn mình nhiều. Tui với bạn ngồi đây được ‘an trú’ dưới mái tôn che chở của An Tiêm, dù nhỏ bé và nghèo cũng còn hạnh phúc hơn những giọt mưa ngoài kia... Đừng có ‘con nít’ nữa. Quan tâm làm gì những lời lẽ vong thân mất gốc. Phải bỏ ngoài tai mới sống nổi. Bạn mà cứ còn suy nghĩ kiểu ‘công nương’ đó thì còn buồn khổ dài dài. Nhìn những giọt mưa kia có giống những giọt nước mắt quê hương mình không? Mình ở trong thành phố, cực mấy cũng còn sướng chán. Dân ở nông thôn mới khổ dễ sợ. Đạn bom cày xới mỗi ngày, bạn bè đi lính thì cứ nghe tin ngã xuống liên tục. Thật là đau đớn, nhức nhối!...”
Trên đường về tôi suy nghĩ mãi về những liên tưởng, những cộng hưởng lương tri của TCS. Từ những giọt mưa đi tìm an trú trên giây kẽm đến những giọt nước mắt quê hương mình trong chiến tranh thì thật lạ và cũng thật tuyệt diệu. Sơn đã đưa triết học vào âm nhạc rồi đó. Có phải từ những liên tưởng này mà Sơn đã viết bài Giọt nước mắt quê hương chăng? Hôm sau tôi vào trường thì bị ngay một dàn chào hí hố:”Bồ câu xuất hiện rồi kìa... Ôi giời! Sao bồ câu không bay ra Bắc mà kêu gọi hòa bình nhĩ? vv,,, và vv... Nhớ lời Sơn, tôi cứ mặc kệ phớt tỉnh vào học. Và thỉnh thoảng vẫn lên Đại học Vạn Hạnh giúp thầy sửa chữa bản thảo sách báo hòa bình và qua An Tiêm gặp lại Sơn và các bạn bè nghệ sĩ lang thang. Họ bàn luận và bức xúc về chiến tranh cùng những hậu quả của nó, và nhất là sự có mặt nghênh ngang của lính Mỹ trên đường phố Sài Gòn...đến không chịu nổi nữa. TCS luôn đốt thuốc lá ngồi nghe, trầm tư và tích lũy bao ý tưởng bạn bè. Sau này, nhìn thấy trong những ca khúc TCS, thỉnh thoảng có bóng dáng bạn bè, như “Còn hai con mắt, một con khóc người...” thì rõ là cái kiểu Bùi giáng rồi.
THỂ NGHIỆM CA KHÚC DA VÀNG
Sau vụ Phật giáo bị đàn áp năm 1966, tình hình chiến sự ngày càng tăng nhanh. Báo chí đưa tin người chết hai bên quá nhiều. Khoảng năm 1967, nhóm sinh viên Phật tử vận động hòa bình chúng tôi bàn với TCS nên viết nhạc phản chiến, kêu gọi ngưng tiếng súng để nói chuyện giữa người Việt với nhau. Sơn nói muốn viết phải về Huế vì ở đó là địa đầu của những trận chiến đẫm máu nhất. Nhưng sau một tuần Sơn viết cho tôi một lá thư bảo là ngày nào cũng úp mặt lên đàn mà ý nhạc vẫn chưa tới. Rồi sau đó nghe bạn bè ngã xuống. Huế đúng là địa đầu của tải thương và nhận xác. Không lâu sau, Sơn đem tập bản thảo “Ca khúc da vàng” vào Sài Gòn hát thử cho bạn bè nghe ở nhà anh TVN. Ai cũng thấm thía đến sững sờ, nhất là các bài Người con gái Việt Nam da vàng, Tình ca người mất trí, Gia tài của mẹ...
Chị bác sĩ Đỗ Thị Văn và tôi đem về thể nghiệm ở trụ sở Sinh viên Phật tử trong cư xá Thích Quảng Đức 294 Công lý (nay là Nam Kỳ Khởi nghĩa). Nhưng khi chúng tôi trương tấm biểu ngữ “Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da vàng” lên trước cổng thì ai cũng ngại. Chị Văn thì thấp, tôi thì cao nên cái biểu ngữ cứ xéo xẹo hoài. Sơn vừa đến, hỏi:”Chứ con trai đâu hết mà để cho con gái leo lên thang vậy?” Tôi cười: ”Con trai mà ló ra đây để cho cảnh sát hốt vô trại lính à!” Sơn kêu: ”Chị Văn nhích lên tí cho bằng bên kia”. Chị cười ngặt nghẽo: ”Ta ráng hết sức rồi, ráng nữa té sao?” Sơn quăng điếu thuốc, bảo: ”Chị xuống đi, để tôi”, rồi leo lên cùng tôi căng thẳng biểu ngữ không nghiêng lệch nữa.
Khi giới thiệu Sơn hát, anh đoàn trưởng nói: ”Chính tác giả đã cùng bạn bè leo lên thang treo biểu ngữ đó”. Khán giả vỗ tay nồng nhiệt. Sơn ôm đàn hát Người già em bé, Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết lăn trầm... Khi đến loạt Ca khúc da vàng thì khán giả đứng lên vỗ tay vang dội cả hội trường. Một số bạn phải chạy ra cổng canh chừng xe cảnh sát. Sau đợt thể nghiệm đó, TCS rất thành công, bạn bè đưa Sơn về hát ở Đại học Văn khoa.
“NỘI CHIẾN”
Một hôm, có một chị bạn của tôi và cũng là bạn TCS đã đến nhà tôi phê bình: ”Sao TCS viết nhạc như vậy mà chị cho là tiến bộ? Bài Gia tài của mẹ có câu ‘Hai mươi năm nội chiến từng ngày’. Chữ ‘nội chiến’ không đúng với chiến tranh Việt Nam. Đây là cuộc chiến chống Mỹ xâm lăng giành độc lập thống nhất chứ không phải nội chiến như Trịnh - Nguyễn ngày xưa”. Tôi nói nhưng rõ ràng là người Việt Nam hai miền Nam-Bắc đang cầm súng giết nhau kia mà. Chị bảo thì do Mỹ đổ quân lên miền Nam và chỉ đạo từ A đến Z. Rồi chị hạ nhỏ giọng như mệnh lệnh: ”Các anh ở trong không bằng lòng hai chữ ‘nội chiến’, chị nói Sơn sửa lại đi!”. Nói xong chị đi ngay.
Tôi nghe mà sợ quá vội chạy lên An Tiêm tìm gặp Sơn, cầm theo cả tâp Ca khúc da vàng Sơn vừa đưa tôi hôm 18/7/1967 có kèm chữ ký tặng. Tôi kể cho Sơn nghe và đề nghị sửa hai chữ ‘nội chiến’ cho rồi, chứ tôi ngán mấy chữ: “các anh ở trong không bằng lòng” quá! Sơn suy nghĩ một hồi rồi nói có vẻ bực mình: ”Mệt quá, nhạc viết ra rồi còn bắt sửa đi sửa lại...” Và Sơn thở dài: ”Thôi tùy bạn, muốn sửa gì cứ sửa!” Tôi đặt bút xuống gạch ngang chữ ‘nội chiến’ trong tập nhạc của tôi, viết lên trên đó chữ ‘giặc giã’. Rồi gạch bỏ luôn chữ đó, vì thấy: ”Dở quá phải không Sơn?. Hay là ‘chinh chiến’ vậy? ‘Chinh chiến’ nghe hơi nhẹ hơn tí, nhưng thôi, cũng được nghen Sơn?” Sơn ậm ừ: ”Tùy bạn... thôi cũng được!”
Tập nhạc tôi còn lưu giữ đến nay với mấy dấu gạch sửa đầy kỷ niệm đó. Cho dù Sơn đã đồng ý sửa lại bằng chữ ‘chinh chiến’, mà khi hát người ta vẫn cứ hát ‘nội chiến’, thế mới khổ. Khi tôi báo cho Sơn biết việc đó, Sơn cười: ”Bạn thấy chưa? Đó là quyền của người hát, làm sao mình cản nổi!”
Giọng hát Khánh Ly đi vào Ca khúc da vàng của TCS như một “duyên kỳ ngộ” của Ca và Nhạc. Từ đó dân Sài Gòn chỉ nghe TCS qua giọng hát Khánh Ly mà thôi. Và Sơn về an trú ở Hội họa sĩ trẻ trong một góc vườn Văn khoa. Thường khi không có giờ học, tôi băng qua đồi cỏ, xuống căn nhà Họa sĩ trẻ nghe Sơn tập cho Khánh Ly hát. Một hôm, Mai (tên thật của Khánh Ly) nhìn thấy tôi bổng kêu lên: ”Chị ơi, từ sáng giờ có mỗi chữ ‘chết’ mà em ‘chết’ mãi không được, ảnh mắng em...kìa!”. Sơn đang ngồi hút thuốc, nhìn ra cửa sổ có vẻ khó chịu. Thì ra chữ ‘chết’ trong “chết trận Đồng Xoài...” trong bài Tình ca người mất trí mà Sơn cứ bắt Khánh Ly phải láy xuống cho hơi Huế một tí. Mà cô này cứ ‘chết’ lên theo giọng Bắc hoài nên Sơn bực. Khi tôi nghe và phát hiện ra như thế, Mai à lên một tiếng. Tôi giải hòa, bảo Sơn đừng có “khó chi mà ác rứa!” Rồi kéo Mai đi lên đồi cỏ chơi một vòng cho đỡ căng hãy tập tiếp.
Khi Quán Văn mọc lên ở Văn khoa thì ban đại diện cũ của chúng tôi hết nhiệm kỳ nên tôi ít lui tới quán sinh viên đó, Chỉ nghe sinh viên xầm xì là do một nhóm sinh viên Văn khoa và bạn bè ở bên ngoài vô gầy lên. Quán đơn sơ, nằm trước phòng ban đại diện cũ, để sinh viên có chỗ uống nước, tán dóc và để cho Khánh Ly, TCS hát với sinh viên. Sân khấu là các mặt bàn kê lại với nhau và đứng hát giữa trời.
Khoảng năm 1967, Ban Văn nghệ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn do anh Trương Thìn hướng dẫn có tổ chức một đêm hát cho sinh viên học sinh nghe ở trụ sở 4 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch). Sau phần trình bày sôi nổi của Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng và các bạn sinh viên trong phong trào tranh đấu Sài Gòn, Trịnh Công Sơn bước lên với chiếc ghi ta thùng, tự hát những bản nhạc sâu lắng nói lên thân phận con người và quê hương trong chiến tranh: Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết lăn trầm... Một dòng nhạc trăn trở, tra vấn lương tri con người mà một nhà báo đã viết lên một câu để đời về sự nghiệp âm nhạc TCS: ”...Và từ đó nhạc Việt Nam không còn như cũ nữa!”.
Vậy mà hôm ấy khi Sơn vừa hát xong thì có một người lên góp ý phê bình Phạm Duy xong lại mỉa mai TCS là giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến, ở nông thôn người dân đội bom, đói khổ hàng ngày mà ở đây người ta cứ ngồi “khóc” để than thân trách phận thì vận nước này có hết điêu linh không?
Sơn ngồi bên, lặng đi một lát rồi hỏi tôi: ”Sao bạn mời tôi đến đây cho người ta chửi vậy!” Tôi cũng ngạc nhiên và trả lời Sơn là mục này không có trong chương trình. Sao lạ vậy, tôi sẽ hỏi anh Thìn. Nhưng Sơn cũng bỏ ra về. Tôi phải hẹn Sơn và Thìn cùng đến Đại học Văn khoa chiều ngày hôm sau để thông cảm nhau. Từ đó, hai người lại trở thành bạn thân thiết cho đến bây giờ.
ANH SINH VIÊN NHẬT EGOCHI
Tôi không rõ nhạc của TCS có ma lực gì mà thu hút được người Nhật đến vậy. Trước Michico đã có Egochi sinh viên cao học Nhật đến Việt Nam làm luận án tiến sĩ về sử học và xã hội học năm 1966.
Anh đến Văn khoa gặp tôi, nhờ giới thiệu với TCS vì anh rất thích bài Vết lăn trầm có câu: ” Đá lăn vết lăn buồn...” Sao đá mà cũng biết buồn? Tôi cười: ”Sao đúng ý tôi quá vậy? Tôi cũng thích nhất bài này trong số nhạc Sơn, nhưng câu đó không phải đá buồn mà vết lăn của đá nó buồn vì đá lăn đi để lại trên đất một vết xước cô đơn, trầm buồn! Mà trên đất nước Việt Nam đang chiến tranh này, Egochi thử đếm xem có bao nhiêu vết xước cô đơn như thế trên đất, trong lòng người? Cho nên TCS mới tha thiết kêu lên ‘Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau’! Egochi thấy chưa?” Anh cười, nói đùa: ”Tư tưởng lớn gặp nhau!”
Khi nghe Sơn ôm đàn nhắm mắt hát bài đó xong, Egochi ngây ngất nói: ”Hình như tôi đã gặp anh Sơn trước đây, gặp ở đâu đó trong tiền kiếp!” Rồi anh nói thao thao về thuyết luân hồi của Phật giáo. Tôi nói: ”Có lẽ hai người gặp nhau trong cùng một nỗi đau dân tộc. Egochi thì mang vết thương của hai quả bom nguyên tử không bao giờ lành trong lòng người Nhật. Còn TCS thì đang bị vết thương chiến tranh này hành hạ từng ngày. Có đúng không?” Cả ba chúng tôi đều đồng ý.
Egochi nói muốn thử ra phố chợ xin ăn, thử sống một ngày lang thang của “kiếp ăn mày” ở Việt Nam, một đất nước đang chiến tranh để hiểu hết ý nghĩa của “nỗi đau cuộc sống”. Một tuần sau, Egochi đến nhà tôi, trông giống như một người ăn xin thật sự, áo quần xơ xác, mặt mày lem luốc bơ phờ... và đói thật. Egochi nói: ”Mệt nhưng mà thích vì cùng đói với các bạn ăn mày ở vỉa hè mà thương nhau lắm. Cùng chia xẻ nỗi đau và rất hạnh phúc!” Tôi đang chuẩn bị cho Egochi ăn, một người bạn tôi chơi ác, đi mua trứng vịt lộn về dấu, bảo nhắm mắt mới cho ăn. Mới ăn, anh nói: ”Ngon nhưng có cảm giác đang ăn một sinh vật!” Các bạn cười ầm lên, đưa ra con vịt con trong trứng lộn. Egochi òa lên khóc nức nở: ”Sao các bạn ác quá vậy! Tôi đã sát sanh rồi!”
Sau đó tôi bị bắt ba tháng vì vụ tranh đấu Phật giáo miền Trung. Egochi đến trước cổng nhà giam khóc và xin bảo lãnh tôi về, nhưng ai mà cho. Ra tù nghe tin anh bị trục xuất khỏi Việt Nam, nhận được thư anh nói mình đang đi châu Phi để cùng sống và nghiên cứu về vùng đất còn lạc hậu nhất thế giới... Tôi kể hết chuyện cho Sơn nghe, Sơn bảo: ”Tay ni lạ thật, thánh thiện quá rồi cũng khó sống!” Tôi chỉ tiếc là chưa giới thiệu Egochi nghiên cứu về nhạc hòa bình của TCS. Nhưng sau này có cô Yochoii Michiko đã đến Việt Nam gặp Sơn và làm luận văn cao học về dòng nhạc phản chiến TCS tại đại học Paris vào năm 1985, được công bố rộng rãi, nổi tiếng khắp thế giới.
HÃY SỐNG DÙM TÔI !
Tôi không thể nào quên được buổi sáng hôm ấy, vào 7.30g ngày 16/5/1967, bạn Phan Đạm Hiệp đạp xe đến gọi tôi thảng thốt: ”Chị Hoa ơi! Chị Mai tự thiêu trên chùa Từ Nghiêm rồi. Chị lên mau đi”. Tôi đạp xe vội lên Từ Nghiêm, vừa đi vừa khóc. Chị Nhất Chi Mai học Sử ở Văn khoa, tôi học Triết, và chị rất thương tôi, coi tôi như một người em tâm đắc, thường gọi đi làm công tác xã hội cùng chị vào các xóm nghèo vùng ngoại ô Sài Gòn. Một người chị nhu mì, hiền lành, một nữ tu Dòng Tiếp hiện mà thầy Nhất Hạnh rất quý nễ trong công tác với tâm bồ đề chân thành. Làm sao hiểu nỗi chị đã chuẩn bị cho cái hạnh Bồ tát này, từ khi đọc báo nghe tin Morrison một giáo sư đại học Mỹ tự thiêu cho hòa bình Việt Nam vào cuối năm 1965. Chị Mai đã khóc và kể lại cho tôi, Morrison bế đứa con gái thân yêu nhất đời Emily một tuổi ra trước tòa nhà Ngũ Giác Đài bộ quốc phòng Mỹ tự thiêu để thức tỉnh lương tri con người, mong chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Emily đứng nhìn ngọn lửa thiêu sống cha mình kêu khóc: ”Cha ơi!”
Chị đã vô cùng xúc động và kính phục Morrison, rồi âm thầm tự nguyện đem thân làm đuốc để đáp lại tấm lòng Bồ tát bên kia bờ đại dương trên xứ sở đang gây chiến ở Việt Nam...
Tôi lên đến nơi thì ngọn lửa vừa tắt, Nhất Chi Mai của tôi ngồi xếp bằng như một pho tượng đồng đen bất động, mùi thịt da khét lẹt bốc khói. Tôi đặt tay lên đùi chị, phải rụt lại ngay, suýt bỏng tay mình. Tôi gục xuống nức nở đau đớn: ”Mai ơi! Sao phải như thế này? Không còn cách nào khác sao, hỡ Mai?” Nhìn hai pho tượng nhỏ Đức Mẹ Maria và Quan Âm Bồ tát đặt ngay ngắn trước mặt chị với 10 bức thư cho gia đình và cho những người có thẩm quyền gây chiến ở Việt Nam.
Trong đó có bài thơ Chắp tay tôi quỳ xuống:
Chắp tay tôi quỳ xuống Sao người Mỹ tự thiêu Sao thế giới biểu tình Sao Việt Nam im tiếng Không dám nói hòa bình
Tôi thấy mình hèn yếu Tôi nghe lòng đắng cay Sống mình không thể nói Chết mới được ra lời
Hòa bình là có tội Hòa bình là cộng sản Tôi vì lòng nhân bản Mà muốn nói hòa bình
Chắp tay tôi quỳ xuống Chịu đau đớn thân này Mong thoát lời thống thiết Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi! Hai mươi năm nay rồi Nhiều máu xương đã đổ Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống.
(Nhất Chi Mai, tự Nhất Chi Kính cáo)
Tôi chép vội bài thơ và không dám ở lại với chị lâu hơn, cũng không thể tiễn đưa chị được vì chùa sợ cảnh sát tới gây khó dễ. Cô em nữ sinh Phật tử H. đã vừa khóc vừa kể hết nỗi niềm của chị Mai cho tôi nghe, bởi em đã gần gũi chị suốt những ngày cuối.
Tôi không về nhà mà đạp xe qua An Tiêm, gặp TCS ở đó kể hết sự tình cho Sơn nghe và tôi khóc nhiều vì thương chị Mai quá chừng. Sơn hốt hoảng rơi người xuống ghế, sửng sốt chết lặng một lúc rồi kêu lên: ”Trời ơi, con gái mà cũng tự thiêu à? Dễ sợ ghê quá, sao không ai can ngăn dùm?” “Can ngăn gì nỗi Sơn ơi, chị ấy đã âm thầm chuẩn bị rất kỷ ngay từ khi nghe tin Morrison tự thiêu bên Mỹ kìa”. Tôi vừa khóc vừa đọc bài thơ Chắp tay tôi quỳ xuống của chị Mai cho Sơn nghe: ”Sơn thấy không, cái tâm Bồ đề của chị thanh cao vời vợi như vậy thì làm sao mà can ngăn cho được. Chị thành Bồ tát rồi Sơn ơi!”
Sơn ngồi bất động, vẫn chưa hoàn hồn, trầm ngâm buồn bã ứa nước mắt: "Ừ, đúng rồi chỉ có cái tâm Bồ tát mới làm được một hạnh nguyện lớn lao như vậy!”
Vài ngày sau, Sơn nhắn tôi lên An Tiêm và ôm đàn hát miên man ca khúc vừa mới viết: ”Hãy sống dùm tôi, Hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...” Sơn hát xong, tôi kêu lên: ”Tuyệt quá Sơn ơi”. Sơn nói: ”Hôm đó bạn về rồi, suốt ngày mình không làm gì được, suốt đêm cũng không ngủ được, cứ trằn trọc mãi với câu thơ của chị Mai ‘Sống mình không thể nói, Chết mới được ra lời!’ Tại sao vậy? Mình đã tự hỏi bao lần như vậy. Tối qua vùng dậy viết... Cuối cùng đã trả lời được cho chị Mai, cho bạn và cho chính mình bằng mấy nốt nhạc này đây. Được chưa?” Sơn đưa tôi bản nhạc chép tay vừa ráo mực. Tôi mừng quá đến chảy nước mắt: ”Được quá Sơn ơi, bây giờ làm sao in ra cho sinh viên đây?” Sơn bảo: ”Khoan đã, để từ từ mình sẽ in chung trong tập Ca khúc da vàng với bài Ru con (nay đổi là Ngủ đi con).
Bạn bè sợ 2 bài này ý mạnh quá, kẹt cho Sơn nên chỉ chuyền tay nhau trong sinh viên thôi. Sau đó, Sơn âm thầm mang đi Nhật Bản và được một hãng đĩa Nhật vinh danh là tiếng kêu hòa bình thống thiết nhất từ Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng phổ biến khắp thế giới cùng tên tuổi của TCS và Khánh Ly. Từ đó đến nay giọng ca Khánh Ly đã đưa Ca khúc da vàng của TCS vào tận tim óc con người, nó lột trần được nguyên hình cái Ác của người với người trong chiến tranh. Giọng ca Khánh Ly đầy ma lực, đến nỗi khi hát cứ như nhập thần. Cho nên Ca khúc da vàng bị cấm hát trên quê hương mình như thân phận nhức nhối, đắng cay của nó...
|
nguồn: Thái Hoà
|